13/3/10

CON DẤU DOANH NGHIỆP MỘT GÓC NHÌN TỪ QUẢN TRỊ CÔNG TY.

Thời gian vừa qua, các phương tiện thông tin đại chúng (1) cũng như các bản báo rút ra từ các khảo sát và nghiên cứu từ thực tiễn (2) đã phản ánh việc “than phiền” của giới doanh nhân cũng như các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý về những bất cập, khó khăn và lãng phí trong việc xin cấp, sử dụng con dấu của doanh nghiệp. Trong khá nhiều ý kiến phân tích, có vẻ như luồng ý kiến về việc sử dụng con dấu theo hướng không bắt buộc, doanh nghiệp được quyền lựa chọn việc sử dụng con dấu như là dấu hiệu, biểu trưng đơn vị, không mang chức năng xác thực chữ ký, tư cách pháp lý của doanh nghiệp đang là luồng ý kiến chủ đạo.Bài viết này khảo sát một vài tranh chấp về quản trị công ty gần đây, có liên quan đến con dấu doanh nghiệp để từ đó có một cái nhìn sâu rộng hơn đối với câu hỏi “Con dấu doanh nghiệp- Cần thiết hay không?”

I- Một số tranh chấp quản trị công ty liên quan đến con dấu

Luật doanh nghiệp 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006 chỉ có vẻn vẹn điều 36 quy định về con dấu của doanh nghiệp, cụ thể là:
Điều 36: Con dấu của doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp có con dấu riêng. Con dấu của doanh nghiệp phải được lưu giữ và bảo quản tại trụ sở chính của doanh nghiệp. Hình thức và nội dung của con dấu, điều kiện làm con dấu và chế độ sử dụng con dấu thực hiện theo quy định của Chính phủ.
2. Con dấu là tài sản của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm quản lý sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cần thiết, được sự đồng ý của cơ quan cấp dấu, doanh nghiệp có thể có con dấu thứ hai.
-------------------------------------
(1) Khổ với…con dấu, Cao Bá Khoát, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn doanh nghiệp K, tại địa chỉ : http://www.vneconomy.vn/64237P0C5/kho-voi-con-dau.htm ; Con dấu doanh nghiệp, có thực sự cần thiết, LS Hồ Hữu Hoành, Tạp chí Doanh nhân & Pháp luật số 11, ngày 25/10/2008; Khắc dấu cho doanh nghiệp, thủ tục phiền hà, tại địa chỉ (truy cập 12/11/2009) http://dddn.com.vn/27952cat104/khac-dau-cho-dn-thu-tuc-phien-ha.htm
(2) Từ ý tưởng kinh doanh đến hiện thực - chặng đường gian nan, GTZ và CIEM, Hà Nội 2005, II- Khắc dấu, trang 15.
-----------------------------------
Quy định pháp luật là vậy, nhưng trong thực tế có thể nói không quá rằng, con dấu gần như là “chữ ký” của doanh nghiệp, của “con ma” ( từ theo LS. Nguyễn Ngọc Bích) là doanh nghiệp bên cạnh chữ ký của người đại diện theo pháp luật, người có thẩm quyền trong các loại văn bản, giấy tờ của doanh nghiệp trong các hoạt động nội bộ cũng như các giao dịch với bên ngoài.
Mang trong mình thắc mắc:” tại sao con dấu lại có ý nghĩa quan trọng như vậy?”, tôi đã đem nó hỏi khá nhiều người là doanh nhân, cán bộ nhà nước, cán bộ công nhân viên ở nhiều vị trí công tác, thành phần kinh tế khác nhau.Và thật đáng suy nghĩ khi hầu hết họ đều thừa nhận rằng, không thật sự hiểu rõ lắm tại sao như vậy.Tuy nhiên, họ đều cho rằng con dấu gần như là một biểu trưng, biểu tượng cho doanh nghiệp, cho tính xác thực của loại văn bản giấy tờ đó, thậm chí là biểu trưng cho cả “ quyền uy của các sếp”.
Tại Điều 1 Nghị định 58/2001/NĐ-CP của chính phủ quy định con dấu “được dùng để thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước”. Điều này có nghĩa rằng đối với doanh nghiệp, các giấy tờ giao dịch, hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý khi có con dấu của doanh nghiệp được đóng lên trên các văn bản đó. Như vậy, chữ ký của người có thẩm quyền của doanh nghiệp sẽ không có giá trị nếu như không được đóng dấu để xác thực chữ ký đó. Vô hình chung, trong quan hệ dân sự, thương mại bất kỳ giữa các chủ thể là tổ chức kinh tế, con dấu gần như được đồng nhất hóa cho sự bảo chứng về tư cách pháp lý, tư cách pháp nhân của những chủ thể đó. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến việc mâu thuẫn với các luật liên quan, vì Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 không có bất kỳ điều khoản nào yêu cầu hợp đồng hay các giấy tờ giao dịch của doanh nghiệp buộc phải đóng dấu mới có hiệu lực thi hành. Đây là một quy định “ vênh lệch với lệ quốc tế” từ đây phát sinh những tranh chấp về hiệu lực pháp luật của các loại giấy tờ, văn bản của doanh nghiệp.
Trong các hoạt động thường nhật, hầu như các giao dịch đơn giản hay phức tạp của doanh nghiệp như mở tài khoản, rút tiền ngân hàng; nộp thuế, đăng ký các dịch vụ thiết yếu như điện, nước, viễn thông,.. phục vụ cho doanh nghiệp thì nhất thiết phải có chữ ký của người có thẩm quyền và dấu của doanh nghiệp, nếu không các giao dịch này chắc chắn sẽ không thể thực hiện được. Ngoài ra, có thể đơn cử trong các loại hồ sơ giấy tờ cần phải sao lưu thành rất nhiều bản chúng ta cũng có thể nhận thấy, chữ ký của người đại diện theo pháp luật, người có thẩm quyền và các thành phần có liên quan có thể là bản sao ( mà người ta thường gọi là không phải “chữ ký tươi”), nhưng nhất định con dấu của doanh nghiệp phải là con dấu” tươi”.Như vậy, có thể nhận thấy con dấu là vật bảo chứng cho chữ ký của tất cả những người có liên quan, thể hiện rõ ràng nhất ý nghĩa “ tư cách pháp nhân” của doanh nghiệp.Và “ai có quyền giữ nó trong doanh nghiệp, đôi khi cũng trở thành tranh chấp phức tạp.”( 3)

[Hộp số1] Cuộc đảo chính ở công ty Đay Sài Gòn:

Cưỡng chế giao nộp con dấu Công ty đay Sài Gòn

Sáng nay, Cơ quan thi hành án TP HCM đã tiếp nhận con dấu của Công ty cổ phần sản xuất dịch vụ thương mại đay Sài Gòn theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 29 ngày 21/6 của TAND thành phố.
Theo biên bản cưỡng chế giao nộp con dấu được lập lúc 9h30 hôm nay, từ nay đến khi tòa có quyết định khác, mọi nghiệp vụ đóng dấu văn bản, giấy tờ của Công ty đay Sài Gòn được thực hiện tại cơ quan thi hành án, buổi sáng từ 10h30 đến 11h30, chiều 15h30 đến 16h30.
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được tòa thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Văn Khảm, người được xem là vừa làm cuộc "đảo chính bất thành" tại Công ty đay Sài Gòn ngày 15/5. Ngày 18/5, ông Khảm nhân danh Công ty cổ phần sản xuất dịch vụ thương mại đay Sài Gòn đã khởi kiện ông Trần Hải Âu, hiện vẫn là người đại diện theo pháp luật của công ty này như văn bản xác nhận của Sở Kế hoạch đầu tư ngày 29/6, để đòi giao con dấu.

--------------------------------------------------------

(3) PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Luật doanh nghiệp, tình huống, phân tích, bình luận, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2009, trang 46.
--------------------------------------------------
Trong khi đó, ngày 24/5, ông Âu cũng nhân danh Công ty cổ phần sản xuất dịch vụ thương mại đay Sài Gòn khởi kiện ông Khảm trước tòa, yêu cầu hủy bỏ kết quả đại hội cổ đông ngày 15/5, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc ông Khảm giao trả tài sản và phòng làm việc của công ty đã bị ông Khảm chiếm giữ.
Tuy nhiên, tòa án đã ra quyết định số 298 ngày 20/6, nhập 2 vụ kiện làm một với nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Khảm, bị đơn là ông Trần Hải Âu. Đồng thời quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, buộc ông Âu phải giao con dấu cho cơ quan thi hành án quản lý. Các văn bản của công ty này muốn được đóng dấu phải có sự đồng ý của ông Khảm và người được ông Khảm chỉ định là bà Đặng Thị Mỹ Hạnh.
Nguy cơ trước mắt: thiếu lương, chậm trả phúc lợi xã hội
Trao đổi với VnExpress sáng nay ngay sau khi làm việc với cơ quan thi hành án và PA17, Chủ tịch Hội đồng quản trị Trần Hải Âu cho biết, trong thời gian thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, công ty vẫn cố gắng chi trả lương và các khoản phụ cấp, chế độ cho người lao động. "Tiền của công ty trong ngân hàng không thiếu, tuy nhiên do quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa, có thể thấy trước là việc chi trả sẽ hết sức khó khăn", ông Âu nhấn mạnh.
Hiện công ty này có khoảng 400 lao động, trong đó riêng xí nghiệp đay ở Bến Cát, Bình Dương đang là nơi nuôi sống của 260 nhân công. Sáng nay, bà Phùng Thị Thanh Hà, chuyên viên tiền lương của phòng nghiệp vụ xí nghiệp Bến Cát đã có mặt tại trụ sở công ty TP HCM để chờ làm thủ tục nhận tiền tạm ứng lương tháng 6 cho công nhân. Song, con dấu đã bị cơ quan thi hành án thu giữ, các bộ phận hành chính tại công ty mẹ không an tâm làm việc. "Không biết hôm nay có thể nhận được lương cho công nhân không", bà Hà nóng ruột.
Thu nhập trung bình công nhân 1,2 triệu đồng/người/tháng, thông thường khoảng ngày cuối tháng hoặc đầu tháng mới, xí nghiệp đay Sài Gòn chi trả tạm ứng 30% lương cho công nhân. Ngày 10-12 hàng tháng chi tiếp lương sản phẩm của tháng trước. Tuy nhiên, theo Phó phòng tổ chức Công ty Đoàn Thị Ngọc Ánh, với tình hình tranh chấp quyền lực quyết liệt giữa các thành viên Hội đồng quản trị, người lao động công ty chắc chắn bị ảnh hưởng quyền lợi nghiêm trọng.
Theo bà Ánh, trước mắt ngoài lương, toàn bộ hồ sơ đóng quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của lao động công ty đã bị chậm trễ do niêm phong. Do đó, các chế độ khám chữa bệnh, về hưu, đau ốm... của nhân viên không được thực hiện đúng thời hạn.
Doanh thu của công ty cũng giảm sút nghiêm trọng do mất uy tín với bạn hàng. Phó phòng sản xuất kinh doanh Võ Thị Xuân Kiều cho biết, doanh thu tháng qua đã một bước giảm từ 3 tỷ đồng xuống còn chưa tới 500 triệu đồng. Trong khi đó, thời hạn các hợp đồng kinh doanh chỉ còn 2 tháng nữa là phải đàm phán mới, song nhiều khách hàng đã từ chối giao dịch.
Rối như canh hẹ
11h30 sáng nay, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu cà phê Tây Nguyên và Doanh nghiệp tư nhân Hoàng Long 2 đã hợp đồng với Công ty đay Sài Gòn, yêu cầu giao 2 lô hàng trị giá hơn 200 triệu đồng lên Tây Nguyên. Phó tổng giám đốc Trương Kế Châu tỏ ra e ngại khả năng thực hiện chậm hợp đồng vì con dấu đã giao cho Thi hành án quản lý và nếu được đóng dấu phải có chữ ký đồng ý của Phó tổng giám đốc Nguyễn Văn Khảm.
2 ngày trước, 11 cổ đông Công ty đay Sài Gòn đã cùng ký đơn đề nghị tòa án cứu xét khẩn cấp, hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn những vi phạm có thể xảy ra, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cổ đông. Đồng thời yêu cầu tổ chức lại đại hội cổ đông trong thời gian sớm nhất.
Theo đại diện cổ đông, quyết định của tòa về người có trách nhiệm sử dụng con dấu không rõ ràng, khiến bà Hạnh và ông Khảm có thể cấu kết với nhau để ký những giấy tờ tài liệu bất hợp pháp. Do đó, cổ đông đề nghị tòa cho phép có 3 người cùng quản lý con dấu tại cơ quan thi hành án là bà Đặng Thị Mỹ Hạnh, 1 người từ Công ty đay Sài Gòn do ông Trần Hải Âu chỉ định, và 1 cổ đông đại diện cho công ty nhà nước là Công ty Lisksin. Trường hợp xấu nhất, cổ đông đề nghị tòa niêm phong hoàn toàn con dấu công ty để đảm bảo an toàn cho việc sử dụng con dấu.
Phan Anh
Hoạt động của công ty này bị đình đốn gần một tháng nay. Nguyên nhân xuất phát từ một đại hội cổ đông bất thường. Cổ đông cũ và mới tranh giành quyền làm chủ công ty. Sau đó cả hai bên đều gửi đơn kiện nhau ra tòa án.
Trong tháng 4, một nhóm cổ đông đã yêu cầu Hội đồng quản trị (HĐQT) tổ chức đại hội bất thường. Theo một số cổ đông này, trong năm 2005, công ty đã không đại hội cổ đông và không có báo cáo tài chính cũng như công bố cổ tức.


Một vài bình luận:

Cuộc đảo chính tại công ty Đay Sài Gòn của “tác giả kịch bản kiêm đạo diễn” Nguyễn Văn Khảm, rút cục vẫn chưa có hồi kết nhanh chóng bởi vốn dĩ đặc trưng của nền tư pháp Việt Nam thì quá trình điều tra để đi đến xét xử và bản án của tòa án cũng như hiệu lực thực sự của nó trong thực tiễn là một chặng đường dài.
Chiếu theo, quyết định số 298 ngày 20/6/2006 của tòa kinh tế, tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nhập 2 vụ kiện làm một với nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Khảm, bị đơn là ông Trần Hải Âu. Đồng thời quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, buộc ông Âu phải giao con dấu cho cơ quan thi hành án quản lý. Các văn bản của công ty này muốn được đóng dấu phải có sự đồng ý của ông Khảm và người được ông Khảm chỉ định là bà Đặng Thị Mỹ Hạnh.Hậu quả là hầu như tất cả các giao dịch, hoạt động của doanh nghiệp không diễn ra được như bình thường.Bởi đơn giản, trong tất cả các hoạt động đấy của công ty các văn bản, giấy tờ có liên quan đều phải có đóng dấu thì mới có hiệu lực pháp luật.Và hậu quả là cán bộ công nhân công ty không được trả lương, các chế độ phúc lợi xã hội không thể được giải quyết,…đặc biệt các giao dịch với các bạn hàng, đối tác của công ty cũng không thể thực hiện.Một tranh chấp quản trị công ty, dẫn đến xoay quanh vấn đề ai được quyền giữ con dấu công ty và chưa biết kết quả cuộc chiến ra sao nhưng hậu quả đối với công ty, với những người lao động trong công ty đã rất rõ ràng.

[Hộp số 2]- Cuộc chiến tại công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết

Buộc ông Tạ Xuân Thọ bàn giao con dấu công ty
Thành ủy TPHCM chỉ đạo Đảng ủy Tổng Công ty Dệt may Gia Định đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với ông Tạ Xuân Thọ
(NLĐ)- Chiều 10-3, ông Lê Hoàng Quân, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TPHCM, đã chủ trì cuộc họp với các cơ quan nội chính của TP, với sự tham gia của Tổng Công ty Dệt may Gia Định và một số cơ quan chức năng để giải quyết việc ông Tạ Xuân Thọ, nguyên tổng giám đốc Công ty CP Bông Bạch Tuyết, không bàn giao quyền điều hành, con dấu của công ty cho ban điều hành mới theo nghị quyết đại hội cổ đông.
Ông Lê Hoàng Quân giao cho Thanh tra TPHCM buộc ông Thọ phải bàn giao con dấu, quyền điều hành trong ngày hôm nay (11-3), dưới sự chứng kiến của cơ quan công an. Nếu ông Thọ không chịu bàn giao, cơ quan công an sẽ cưỡng chế buộc thực hiện. Ông Lê Hoàng Quân cũng chỉ đạo Đảng ủy Tổng Công ty Dệt may Gia Định đình chỉ sinh hoạt Đảng với ông Tạ Xuân Thọ.
Sáng cùng ngày, ông Bùi Hoàng Danh, Chánh án TAND TPHCM, cho biết tòa án đã đình chỉ vụ kiện tranh chấp thành viên tại Công ty CP Bông Bạch Tuyết; việc buộc ông Tạ Xuân Thọ bàn giao quyền điều hành, con dấu của công ty thuộc thẩm quyền UBND TPHCM. Thẩm phán Nguyễn Công Phú, người ra quyết định đình chỉ vụ án, khẳng định ông Thọ có đơn đại diện Công ty CP Bông Bạch Tuyết (có đóng dấu công ty) rút đơn khởi kiện. Hiện đơn này đang nằm trong hồ sơ vụ án chứ không phải như ông Thọ đã trả lời với báo chí là mình không hề rút đơn (Báo Người Lao Động ngày 10-3 đã thông tin).

Với một loạt các quy định rất chặt chẽ của pháp luật về việc tạo lập, sử dụng và bảo quản con dấu doanh nghiệp,với các chế tài xử lý rất đa dạng với mỗi hành vi vi phạm.Nhẹ thì xử lý hành chính, nếu nặng hơn có thể bị bỏ tù. Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội thì hành vi “Tự ý mang con dấu ra khỏi cơ quan, đơn vị mà không được phép của cấp có thẩm quyền” sẽ phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng .
Điều 268 Bộ luật hình sự về tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng quy định: “Người nào chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ trái phép con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội không thuộc tài liệu bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: Có tổ chức; Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; Tái phạm nguy hiểm”. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Chỉ có một điều, lại có một nghịch lý là càng quy định như vậy thì tình hình tội phạm kinh tế liên quan đến việc sử dụng con dấu ngày càng gia tăng nhanh chóng, ngành công an đã phát hiện hàng loạt vụ án làm giả con dấu doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước một cách cực kỳ tinh vi, khó có thể phân biệt được so với con dấu thật.Rõ ràng, chúng ta vẫn chưa quy định được cụ thể về công năng của con dấu, do đó việc sử dụng con dấu càng thể hiện yếu tố tập tính, thói quen tâm lý mà thôi.Điều này làm cho con dấu trở nên có một uy quyền rất lớn và hầu như người ta ít để ý đến các biện pháp khác để bảo đảm tính xác thực của một loại văn bản, giấy tờ do doanh nghiệp ban hành mà chỉ chăm chăm dựa vào con dấu.Có lẽ vì vậy mà tội phạm liên quan đến con dấu mới có “đất” tung hoành đến vậy.
Mặt khác, khi có những tranh chấp về quản trị công ty có liên quan đến con dấu doanh nghiệp, nhiều khi người ta tranh chấp luôn cả vấn đề ai có quyền giữ con dấu như là một cách để gây sức ép và vô hiệu hóa quyền lực của bên kia.Vậy nhưng, chỉ là tranh chấp nội bộ doanh nghiệp nhưng lúc này nó không còn đơn thuần là tranh chấp dân sự thương mại nữa mà có khi, qua một ranh giới đã trở thành tội phạm hình sự.Thật khó để phân biệt tranh chấp “quyền sử dụng con dấu trong nội bộ doanh nghiệp” như các vụ án kể trên là tranh chấp dân sự, thương mại hay là có dấu hiệu của hành vi “chiếm đoạt trái phép con dấu” quy định tại Điều 268 Bộ luật hình sự?

[Hộp số 3]- Thân phận của con dấu tại Công ty CP Đầu tư phát triển đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà (Sudico).

Tổng giám đốc “kêu cứu” việc bị “cuỗm” con dấu

(Dân trí) - Liên tục từ hơn một tuần nay, Tổng Giám đốc Công ty Sudico liên tục có các văn bản gửi tới cơ quan công an các cấp “kêu cứu” về việc con dấu Tổng Giám đốc Sudico đang bị một cá nhân chiếm dụng nhiều ngày khiến doanh nghiệp này gặp khốn khổ.

Như Dân trí đã đưa tin, tình trạng một công ty hai tổng giám đốc (TGĐ) đang diễn ra tại Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà - Sudico khi vị TGĐ cũ không chấp hành quyết định miễn nhiệm của HĐQT. Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đang có phần trở nên phức tạp hơn khi con dấu TGĐ của công ty đang bị chiếm giữ...
Văn thư bị “cưỡng đoạt” dấu
Theo đơn trình báo của bà Lê Thị Tám, nhân viên văn thư người chuyên trách giữ con dấu của Công ty Sudico, vào sáng ngày 10/10/2008, tại bộ phận văn thư của phòng Tổ chức - Hành chính công ty, ông Vũ Đức Thuận, nguyên là TGĐ Sudico có đưa tờ đơn đề nghị do chính ông Thuận ký bảo đóng dấu tròn vào bản chữ ký. Bà Tám không đồng ý vì trước đó HĐQT công ty Sudico đã ra quyết định miễn nhiệm ông Thuận.
Tuy nhiên sau đó, ông Phí Thanh Thuận, Trưởng phòng Hành chính Tổng hợp vẫn lấy dấu từ tay bà Tám và đóng dấu vào tờ đơn đó. “Sau khi ông Phí Thanh Thuận đóng dấu vào tờ đơn, tôi có đòi lại dấu thì ông Thuận dứt khoát không đưa cho tôi”.
Trong buổi làm việc với Dân trí, ông Phan Ngọc Diệp, Chủ tịch HĐQT Sudico bức xúc cho biết: “Căn cứ đơn trình báo của bà Lê Thị Tám, ngày 16/10, Công an huyện Từ Liêm đã đến làm việc với công ty và xác định hiện con dấu do ông Đỗ Xuân Hạnh, Phó trưởng phòng tổ chức hành chính giữ.
Tuy nhiên, sau đó không thể hiện việc bàn giao con dấu giữa bà Lê Thị Tám và ông Đỗ Xuân Hạnh mặc dù bà Tám là người được giao nhiệm vụ giữ con dấu”.
Lời kêu cứu của doanh nghiệp
Trong văn bản gửi tới Giám đốc công an TP Hà Nội, Trưởng công an huyện Từ Liêm vào ngày 24/10, ông Vi Việt Dũng, TGĐ mới được bổ nhiệm của Sudico cho biết: “Hiện nay với chức danh TGĐ và người đại diện pháp luật của công ty do đó hàng ngày tôi phải ký các quyết định, giấy tờ, các ủy nhiệm chi liên quan đến hợp đồng kinh tế, các báo cáo kiểm toán, kế toán và các giấy tờ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các giấy tờ trên không được đóng dấu do con dấu đang bị chiếm giữ trái phép, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp như: không kịp trả lương cho cán bộ nhân viên các đơn vị, các đối tác ngừng giao dịch, các báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh không gửi được cho Ủy ban chứng khoán, các chi tiêu doanh thu, lợi nhuận bị thiệt hại, các hoạt động liên quan đến cơ quan thuế bị ngưng trệ...”.
Ngày 27/10, Tổng Công ty Sông Đà - đơn vị chiếm giữ 36% tài sản của Sudico tiếp tục có văn bản gửi tới Giám đốc công an TP Hà Nội, Trưởng công an huyện Từ Liêm đề nghị khẩn trương giải tỏa con dấu pháp nhân bị giữ trái phép tại công ty Sudico.
Trong văn bản này, ông Lê Văn Tốn, Phó TGĐ Tổng Công ty Sông Đà khẳng định: “Theo báo cáo của người đại diện phần vốn của Tổng Công ty Sông Đà tại Sudico ngày 24/10, văn bản của người đại diện theo pháp luật của Sudico ngày 24/10, đến thời điểm hiện nay việc bàn giao, quản lý sử dụng con dấu pháp nhân của công ty Sudico chưa được thực hiện... Việc này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, ngưng trệ các giao dịch kinh tế, dân sự, thiệt hại đến các cơ quan kinh doanh, lợi ích của nhà nước, của doanh nghiệp và của các cổ đông”.
Theo tìm hiểm của phóng viên Dân trí, cho tới thời điểm này con dấu TGĐ Sudico vẫn tiếp tục bị chiếm giữ trái phép. Về phía cơ quan công an, Công an huyện Từ Liêm đã tiến hành điều tra, lập biên bản nhưng sau đó con dấu vẫn không bị niêm phong.
Phúc Hưng

Một vài bình luận:

Về nguyên tắc, với bất kỳ pháp nhân nào, người đại diện theo pháp luật là người quản lý và sử dụng con dấu. Bằng văn bản nội bộ, người đại diện theo pháp luật có thể uỷ quyền cho cán bộ công nhân viên trong Công ty (có thể là trưởng phòng tổ chức hành chính hoặc văn thư trong công ty) quản lý con dấu. Trường hợp Trưởng phòng Hành chính tổ chức Phí Thanh Thuận của Sudico chiếm giữ trái phép con dấu thì có thể căn cứ theo động cơ và thiệt hại do hành vi này gây ra để xử lý.
Nếu ông Thuận chưa dùng con dấu vào hành vi phi pháp thì có thể xử lý nội bộ theo quy định của Công ty, nếu chiếm giữ con dấu vì mục đích trục lợi, động cơ cá nhân nào đó, có thể chuyển vụ việc cho cơ quan công an xử lý, quan trọng là phải xác định việc làm trái phép đó nhằm mục đích gì?
Vụ việc này xuất phát điểm chỉ là tranh chấp quản trị công ty, từ đó nảy sinh hiện tượng “ một công ty có tới hai tổng giám đốc”, dẫn đến việc con dấu bị chiếm giữ hơn một tháng và kết cục là “công ty Sudico được cấp con dấu mới”.
Như vậy, các tranh chấp về quản trị công ty mà chủ yếu là tranh chấp giữa các cổ đông và giữa cổ đông với người quản lý công ty phổ biến hiện nay đều ít nhiều để lại những hậu quả xấu cho công ty, ít nhất là hình ảnh của công ty trong mắt cổ đông, bạn hàng và xã hội.Nhưng có lẽ vì những quy định quá chặt chẽ trong vấn đề ai có quyền giữ con dấu của doanh nghiệp cũng như ý nghĩa thực sự của con dấu mà hậu quả là khi xẩy ra tranh chấp, người ta có thể dùng cách “ cầm giữ con dấu” như một “ con tin” để mặc cả với bên kia gây ra những hậu quả xấu không đáng có.

II- Tiểu kết.

Xin được dẫn lại ý kiến của TS Nguyễn Quang A – Viện Nghiên cứu phát triển IDS, Việt Nam là một trong số 07 quốc gia còn lại duy nhất trên thế giới có quy định bắt buộc về sử dụng con dấu của tổ chức, doanh nghiệp, và có khoảng 171 quốc gia không quy định dùng con dấu (nguồn Báo Tuổi trẻ)( 4). Hiện nay, tại nhiều quốc gia, việc sử dụng con dấu doanh nghiệp không mang tính bắt buộc, và mục đích sử dụng không nhằm bảo chứng chữ ký, xác định tư cách pháp lý mà chỉ thể hiện ý nghĩa là dấu hiệu, biểu trưng cho một tổ chức, doanh nghiệp mà thôi. Qua việc khảo sát một vài tranh chấp về quản trị công ty liên quan đến con dấu ở trên cho ta thấy việc xác định sai ý nghĩa, chức năng của con dấu doanh nghiệp trong đời sống kinh doanh, thương mại đã để lại những hậu quả xấu đối với hoạt động của doanh nghiệp.Nên chăng cần những khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng hơn để có thể quyết định bãi bỏ những quy định bắt buộc nhưng không cần thiết hiện nay liên quan đến thủ tục tạo lập, chế độ bảo quản và ý nghĩa của chính con dấu đối với doanh nghiệp./.

Kinh tế luật và hiện tượng chính quyền địa phương “đua nhau” bán hết các mảnh đất “đắc địa”!

I- Đặc điểm đất đai và pháp luật đất đai Việt Nam.

1- Đất đai- một loại tài sản rất có giá trị thuộc sở hữu toàn dân.

Điều 17 Hiến Pháp 1992 của Việt Nam quy định “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.

Điều này được tái khẳng định tại khoản 1, điều 5 Luật Đât đai 2003 “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”.Với việc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân cũng như cùng với Trung Quốc sáng tạo ra khái niệm “ quyền sở hữu quyền sử dụng đất” thay vì “ quyền sở hữu đất” như các nước khác trên thế giới.Đây cũng là một đặc điểm riêng biệt mà khi nghiên cứu về chính sách và pháp luật đất đai nói riêng ( tài sản nói chung) ở Việt Nam hiện nay rất đáng lưu ý.

2- Định giá đất đai ở Việt Nam

Theo các quy định về định giá đất, ở Việt Nam hiện nay có các phương pháp sau: (i) Phương pháp so sánh trực tiếp; (ii) Phương pháp thu nhập; (iii) Phương pháp chiết trừ; (iv) Phương pháp thặng dư.Tuy vậy, nhìn chung khi tiến hành các giao dịch đất đai, người ta vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp mà mấu chốt của nó là xác định vị trí tương quan của thửa đất theo các số liệu: nhóm đất,phân vùng đất, phân hạng đất, khu vực. Trong các thông tin đầu vào này, người ta dựa vào một tiêu chí rất quan trọng là mối quan hệ của nó với những con đường giao thông chính mà thường loại có giá trị cao nhất là có mặt tiền giáp trục đường.Đây là mộ trong những tiêu chí quan trọng để xác định một mảnh đất có “đắc địa” hay không?

Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, chúng ta thống nhất rằng khái niệm một mảnh đất “đắc địa” là một mảnh đất mà khi đem giao dịch, được định giá và mua bán với giá rất cao.Nói vậy cũng thật mơ hồ nhưng thực tế giá trị của một mảnh đất trên thị trường phụ thuộc rất nhiều yếu tố như diện tích, hướng, tương quan mặt tiền với trục đường, chiều rộng đường vào, hình dáng mảnh đất, vị trí của mảnh đất trong tổng thể chung, thông tin quy hoạch, các yếu tố thuộc về phong thủy, văn hóa, tín ngưỡng,…vì vậy, để nghiên cứu hành vi bán các mảnh đất đắc địa của chính quyền các địa phương, ta sẽ hiểu thống nhất khái niệm như trên và quy việc nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ kinh tế.

II- Những yếu tố chính tác động

Để lý giải nguyên nhân của hiện tượng này, chúng ta phải xuất phát từ một quy luật rất phổ quát của kinh tế học, đó là quy luật cung- cầu.Nghĩa là,người mua cũng có nhu cầu mua lớn và người bán cũng có khả năng để đáp ứng nhu cầu đó.

1- Tâm lý của người Á Đông

Trước khi xét đến các nguyên nhân của việc tại sao chính quyền địa phương lại “mặn mà” với việc bán các mảnh đất “đắc địa” như vậy, thì trước tiên cần nói đến yếu tố rất quan trọng làm cho cầu nhà đất của người dân rất lớn đó là tâm lý tích trữ qua đất đai nói riêng và bất động sản nói chung của người Á Đông và người Việt Nam nói riêng.

Đối với người Việt Nam, bao giờ cũng vậy “ có an cư thì mới lạc nghiệp”, chính vì vậy mảnh đất và ngôi nhà có ý nghĩa đặc biệt, có khi là đích phấn đấu cả đời của họ.Cũng không phải ngẫu nhiên mà tâm lý người Việt Nam đều thích ở nhà riêng gắn liên với đất của mình hơn là ở các loại nhà kiểu chung cư mặc dầu tâm lý sở hữu riêng không phải là yếu tố duy nhất.( Những nguyên nhân khác có thể kể là các quy định pháp luật hiện nay về chung cư chưa thật đầy đủ nên xẩy ra nhiều tranh chấp (1); việc ở nhà chung cư người dân sẽ chỉ sở hữu một diện tích sàn cố định,trong khi có đất họ có thể xây thêm tầng để tăng diện tích sàn khi có nhu cầu,…).

Ngoài tâm lý tích trữ, tâm lý để lại tài sản cho con cháu đời sau, cũng như có một ít tài sản tặng cho con cháu khi chúng lập gia đình riêng, lập nghiệp,… cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng góp phần tăng cầu đất đai của người dân. Khác với văn hóa và trình độ phát triển của người phương Tây, người Việt Nam hầu như khó lòng để lại cho con loại sản nghiệp gia đình kiểu: công ty thương mại; thương hiệu mang tính gia đình, dòng họ;cổ phiếu, chứng khoán…mà đa phần là tài sản dưới dạng tiền mặt, bất động sản và vàng.Để lý giải điều này thật ra phải xem xét nhiều yếu tố về kinh tế, văn hóa, xã hội đặc trưng của xã hội Việt Nam và tất nhiên cũng không phải là không có những ngoại lệ.Với hiểu biết của mình, tôi chỉ dám đưa ra một ý kiến nhỏ của cá nhân,

(1) Điển hình là các vụ tranh chấp ở khu The Manor (Hà Nội), chung cư Botanic Tower (TP Hồ Chí Minh),….

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đó là người Việt Nam không có truyền thống kinh doanh, buôn bán thương mại lâu đời như người phương Tây cũng như các quốc gia láng giềng như Ấn Độ, Trung Quốc, Mã Lai,… .Ngay cả những gia đình buôn bán, thương nhân cũng thích con cái họ trở thành công chức nhà nước, cử nhân, bác sỹ, luật sư, …hơn là nối nghiệp thương nhân của gia đình.Chính vì thế, không gì tốt hơn là để lại cho con tài sản dưới dạng bất động sản, vàng, tiền và đất đai là một lựa chọn thường gặp nhất.

Đi xa hơn một chút, nếu xét dưới góc độ kinh tế, hiện nay có ba “kênh” chính mà người dân có thể “tích trữ” của cải vừa tham gia đầu tư đó là : đất đai, vàng và chứng khoán.Tuy vậy, xét trên yếu tố an toàn thì chứng khoán là kênh đầu tư mạo hiểm nhất.Khi công ty mà họ sở hữu chứng khoán hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả hay bất kỳ một lý do gì đó mà chứng khoán công ty này giảm giá hay mất giá, nguy cơ về việc cầm trong tay một mớ giấy lộn là không tránh khỏi.Trong khi đấy, vàng và đất đai là hai loại tài sản khá an toàn ( ít ra là so với chứng khoán).Giử sử rằng giá vàng hay đất đai trên thị trường có xuống đến mức thấp nhất thì ít ra họ vẫn còn mảnh đất hay thỏi vàng, không bán đi có thể sử dụng vì các mục đích khác.Theo nhận định chung của giới đầu tư, “bất động sản vẫn là kênh đầu tư an toàn nhất“ ( 2) trong bối cảnh giá vàng biến động, chứng khoán chùng xuống và nhà đầu tư lúng túng không biết "đổ" tiền vào đâu. Mặc dù có những thời điểm thị trường bất động sản đóng băng, giới đầu tư gặp khó khăn về tính thanh khoản, nhưng xem xét về diễn biến quá trình từ trước đến nay thì biểu đồ của thị trường này vẫn ổn định.

Đương nhiên nhu cầu, thói quen hay văn hóa là một chuyện, nhưng việc để có thể đầu tư hay tích trữ vào đất đai lại là một chuyện khác.Có thể nói để làm được điều này, cần một điều kiện đủ là khả năng tài chính, khả năng thông tin,…Lý giải những yếu tố khác này, sẽ được xét kỹ ở những phần sau, chúng sẽ trả lời những câu hỏi ví dụ như: tại sao quan chức trung ương và địa phương lại là những người hay mua những mảnh đất đắc địa ấy, tại sao các địa phương lại sốt sắng bán những mảnh đất ấy đến thế?....

2- Yếu tố đầu cơ

Nếu như văn hóa tích trữ của cải dưới dạng đất đai là một trong những yếu tố làm tăng cầu đất đai của người dân một cách “bền vững”, thì yếu tố đầu cơ chính là yếu tố quan trọng nhất làm cho cầu đất đai nói riêng, bất động sản của Việt Nam- đặc biệt là các đô thị lớn- tăng lên nhanh chóng và làm méo mó cả sự vận hành cũng như phát triển thị trường bất động sản

(2) Vũ Lê, Địa ốc an toàn hơn vàng, ngoại tệ và chứng khoán, truy cập vào ngày 29/11/2009 lúc 09h:31 (GMT +7) tại: http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/print/batdongsan/419680/index.html

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Do khuôn khổ bài viết, chúng tôi không có ý định đi sâu phân tích về yếu tố này.Chỉ xin nhấn mạnh, yếu tố đầu cơ là một trong những yếu tố làm cho những mảnh đất đắc địa hầu hết rơi vào tay những người không thật sự có nhu cầu về đất đai, không có nhu cầu muốn cải thiện chỗ ở nhưng lại có điều kiện về tài chính và thông tin để kiếm lời.Tất nhiên, yếu tố đầu cơ sẽ không thể đóng góp mạnh mẽ như vậy nếu không có sự giúp sức vô cùng đắc lực của một chính sách thuế thu nhập bất động sản vừa thiếu, vừa yếu hiện nay, cũng như có yếu tố của sự can thiệp về chính trị, nạn tham nhũng…

Mặc dù luật thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã quy định rất rõ người bán phải chịu thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng thực tế người mua thường phải nộp khoản thuế này khi làm thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng đất.Cộng với giá mua đất vốn đã “ trên trời”, người mua phải chịu chi phí khi đăng ký chuyển quyền tài sản cũng như mọi rủi ro khác.Điều này cũng góp phần dẫn đến tình trạng mua bán trao tay xuất phát từ tâm lý ”ngại chi phí”.Từ đây hình thành một thói quen và một thị trường giao dịch ngầm.Theo thống kê chưa chính thức, năm 2008, số lượng giao dịch ngầm trên thị trường nhà đất, nhất là tại các đô thị lớn chiếm tới 70-80%.Tại khu vực nông thôn tình trạng mua bán trao tay khá phổ biến.Chính thói quen này làm cho việc kiểm soát đầu cơ, làm giảm sự thao túng thị trường là rất khó khăn.Nó là nguyên nhân sâu xa gây nên hiện tượng đất đai tập trung vào tay một số nhóm nhỏ người mà nhà nước hay xã hội đều chẳng được lợi gì.

3- Sự can thiệp của chính trị và sự thiếu minh bạch của pháp luật.

Bao giờ nói đến chuyện can thiệp về chính trị vào đời sống kinh tế xã hội cũng là một vấn đề “nhạy cảm” ở Việt Nam.Thế nhưng đây là một điều mà hầu như mọi người đều biết và gần như ngầm hiểu.Hiển nhiên, đất đai là một loại tài sản rất có giá trị, vì thế thật khó mà tránh khỏi việc những cánh tay chính trị vươn dài tới chúng.

Thường gặp nhất hiện nay vẫn là việc can thiệp hay lợi dụng thông tin quy hoạch.Mà để có nguồn thông tin này, thường phải là những người hay nhóm người có mối quan hệ đặc biệt với những người có chức năng liên quan đến quy hoạch.Nhìn chung thị trường bất động sản Việt Nam nói chung, đất đai nói riêng thiếu nguồn thông tin chính thống và khách quan.Chính việc công khai các thông tin về quy hoạch chưa triệt để, rõ rang.Điều này thúc đẩy mạnh tình trạng đầu cơ bất động sản khi một số ít thành phần nắm được các thông tin quy hoạch để rồi” đi tắt đón đầu”, đầu cơ kiếm lợi nhuận.Mặt khác, nó làm chi phí giao dịch tăng cao nếu người dân có nhu cầu để tham gia vào các giao dịch liên quan đến bất động sản.Trước khi tham gia vào một giao dịch, các bên tham gia rất cần thông tin về nguồn gốc,quy hoạch, tình trạng sở hữu,sử dụng, tranh chấp, thế chấp nếu có, nhưng việc này khó như ”tìm đường lên trời”. Bên cạnh đấy, ở Việt Nam các loại giấy chứng nhận sở hữu bất động sản như giấy hồng, giấy xanh cấp rất phức tạp.Và nếu không có những thứ giấy chứng nhận đó thì người ta không thể nào hợp thức hóa các tài sản. Mà khi không hợp thức hoá được thì giao dịch tài sản đó thường dễ nằm ngoài luồng, không thể kiểm soát được. Từng người sẽ phải tốn kém nhiều chi phí để bảo đảm cái an toàn của mình trong giao dịch.Việc thiếu thông tin này, làm cho tính thanh khoản của thị trường yếu đi xét ở cả hai khía cạnh: người mua khó mua, người bán cũng khó bán và hậu quả là “đất đẹp” rơi vào tay các “ đại gia”- những người có khả năng và có đầy đủ thông tin và chính quyền địa phương cũng rất nhiệt tình bán cho những người mà họ có quan hệ “quen biết” vì chẳng ai lại dại đi “làm ăn” với “người lạ”!

4- Tình trạng tham nhũng và nạn rửa tiền.

Hiện nay, tham nhũng là một trong những nội lực cản trở sự phát triển kinh tế và cải thiện công bằng xã hội tại Việt Nam.

Tham nhũng liên quan đến đất đai là một trong những loại tham nhũng phổ biến và ngày càng tinh vi gây bất bình cho nhân dân cũng như gây mất ổn định xã hội.Các vụ tham nhũng liên quan đến đất đai như vụ ở Quán Nam, Đồ Sơn ( Hải Phòng), chia chác đất đai ở Đông Vĩnh, Hưng Hòa…(Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An)… Điều đáng chú ý là hầu hết các vụ việc tham nhũng đất đai đều không được các cấp chính quyền kiểm tra, phát hiện mà chỉ bị phanh phui khi có yêu cầu của cấp trên hoặc phát hiện của báo chí.Chính nhờ nắm trong tay quyền lực công mà chủ yếu là thông qua việc quy hoạch, thông tin quy hoạch một nhóm cán bộ tham nhũng đã lợi dụng chúng để có được những mảnh đất đắc địa.

Ngoài các vụ tham nhũng đất đai của cán bộ chính quyền địa phương hay trung ương theo cách truyền thống nghĩa là chia chác nhau đất đai, hay thậm chí tiền bán đất đai,…thì có một tầng sâu hơn nữa và đang phổ biến hiện nay là việc rửa tiền qua mua bán, tích trữ đất đai cũng như qua các dự án liên quan đến đất đai.

Điều này không có gì là mới, Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã từng đưa ra cảnh báo: “Việt Nam đang trở thành mục tiêu của hoạt động rửa tiền vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng của các ngân hàng còn kém phát triển; mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn khiến cho việc kiểm soát các giao dịch, thanh toán trở nên khó khăn.”

Quan sát tình hình kinh tế Việt Nam những năm gần đây, chúng ta dễ dàng nhận ra thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán là hai thị trường mà tốc độ phát triển của chúng rất khó dự đoán, dễ đi từ trạng thái phát triển nóng chuyển sang đóng băng và ngược lại. Không đi sâu vào diễn biến của hai thị trường này, nhưng nhìn chung chỉ số VN –Index của thị trường chứng khoán liên tục tăng cao trong năm 2007 và đầu năm 2008. Tương tự thị trường bất động sản cũng tăng cao trong nửa cuối năm 2007 cho đến nay là cuối năm 2009, mặc dầu có những dấu hiệu chững lại và có giảm nhẹ nhưng giá đất và căn hộ ở các thành phố lớn, các khu vực “nóng” giá đất vẫn rất cao và hầu như không theo một quy luật nào hết.Điển hình là g đất tại Nội vùng lân cận rất đắt. Ưc tính gần đây cho thấy giá một mét vuông đất Nội hoặc các tnh lân cận cao gần bằng Nhật Bản, trong khi thu nhập quốc dân đầu ngưi chỉ chưa bằng 2% của nưc Nhật Bản chật hẹp! ( 3) Điều này cho thấy có một luồng tiền rất lớn đã đổ vào thị trường này nhưng việc kiểm tra nguồn gốc của lượng tiền này không được quan tâm đúng mức. Đối với thị trường bất động sản, những mảnh đất hay căn hộ trị giá cả tỷ đồng, nhưng đa số đều thanh toán bằng tiền mặt, tuy vậy hoạt động điều tra, phân tích các giao dịch này chưa được thực hiện.

Mặc dù hiện nay, đi đôi với công tác phòng chống tham nhũng, thì Việt Nam cũng đã có những cố gắng nỗ lực lớn trong việc chống rửa tiền .Cụ thể là ngày 7/6/2005, chính phủ ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền (có hiệu lực từ ngày 1/8/2005). Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định riêng về loại tội phạm rửa tiền và phân công trách nhiệm đối tượng phòng chống loại tội phạm mới này, cũng là một bước đi đầu tiên nhằm tạo hành lang pháp lý cho quá trình chống lại các hoạt động rửa tiền.Tuy vậy, bất động sản vẫn là một kênh rửa tiền phổ biến hiện nay, đặc biệt là tiền từ tham nhũng.Qua điều tra của chúng tôi, việc rửa tiền qua bất động sản mà đặc biệt là đất đai thường nằm ở khâu thứ ba, tức khâu cuối cùng của hoạt động rửa tiền. Cụ thể xin xem bảng dưới đây:

Quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền có ba đọan:

- Giai đoạn thứ nhất: Phân phối nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào các định chế tài chính mà không bị phát hiện bởi các cơ quan luật pháp. Các tội phạm rửa tiền thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản “tiền bẩn” thành nhiều khoản tiền nhỏ dưới mức quy định.

(3) Nhóm Nghiên cứu: Nguyễn Đình Cung, Phạm Anh Tuấn, Bùi Văn, David Dapice, Lịch sử hay chính sách: tại sao các tỉnh phía Bắc không tăng trưởng nhanh hơn, chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

- Giai đoạn thứ hai: Tiền được chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài chính khác để che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của tiền. Thực chất đây là quy trình tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp và làm cho chúng ngày càng xa nguồn gốc ban đầu.

- Giai đoạn thứ ba: Tiền được đầu tư vào những hoạt động kinh doanh hợp pháp.

Tiền sẽ được phân phối trở lại vào nền kinh tế với nguồn gốc không thể tìm ra được dấu vết của chúng. Giai đoạn này được tiến hành bằng các hành vi tiêu dùng, đầu tư vào các doanh nghiệp và đầu tư tài chính. Thủ đoạn của chúng lúc đầu thường chuyển đổi sang chi phí trên quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để tạo cho chúng vỏ bọc uy tín, làm ăn có lãi, tài trợ từ thiện, trả lương hộ, đóng góp xây dựng hoặc mua bất động sản, mua ô tô đắt tiền, xây dựng các công trình,… Sau đó bán lại để thu tiền, hay đóng góp cổ phần vào các công ty lớn, sau đó chuyển nhượng cổ phần.

Như vậy, nguồn tiền thu lợi từ các hoạt động phi pháp đã được dùng để mua các loại bất động sản và từ đây, chúng sẽ được chuyển đi theo các con đường khác nhau.Có ý kiến cho rằng, thị trường bất động sản hay cụ thể là những mảnh đất có giá trên 1.000 USD/1m2, là kết quả của việc “tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục nhiều năm, đời sống được cải thiện và người dân có tích lũy”(4), tuy vậy với thu nhập bình quân là 1024 USD/ người/năm ( theo số liệu thống kê năm 2008) thì thật khó lý giải cho những căn nhà, mảnh đất “ đắc địa” trị giá hàng trăm nghìn đến hàng triệu USD dọc những con đường lớn như hiện nay!.

Qua việc xét đến yếu tố sự can thiệp chính trị cùng với nạn tham nhũng và rửa tiền, sẽ dễ dàng lý giải nhận xét “nhiều quan chức địa phương và trung ương đã mua đất” và nếu có những khoản thu nhập bất thường, thì sẽ dễ hơn nếu mua đất so với việc gửi vào tài khoản hay mua trái phiếu hoặc cổ phiếu. Vả lại, thu nhập từ đất lại không bị đánh thuế như thu nhập từ lao động.Mặt khác với ưu thế về thông tin, về quan hệ là thứ rất dễ chuyển thành tiền.Chính do khoảng cách giữa Hà Nội và các tỉnh lân cận không nhiều nên nhiều cán bộ trung ương có thể dễ dàng mua đất ở các tỉnh đó. Và ở chiều ngược lại cũng rất nhiều cán bộ địa phương mua đất Hà Nội và các tỉnh lân cận.

5- Đặc điểm nguồn thu ngân sách địa phương

Người dân thì vậy, còn chính quyền địa phương thì sao?Tại sao các mảnh đất “đắc địa”

(4)Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng, kinh tế Việt Nam- thăng trầm và đột phá, NXB Chính trị Quốc Gia 2009, trang 300.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

lại nhanh chóng “có chủ” đến thế mặc dầu pháp luật và chính sách nhà nước đều có xu hướng hạn chế việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp, kể cả khi hiệu quả sử dụng đất phi nông nhiệp có thu nhập cao hơn nhiều lần?

Theo quy định của luật Ngân sách nhà nước sửa đổi bổ sung năm 2003, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành (bao gồm: nghị định số 60/2003/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước; thông tư số 59/2003/TT-BTC và 60/2003/TT-BTC hướng dẫn chi tiết thi hành nghị định kể trên) trong phần các nguồn thu của ngân sách địa phương đều bao gồm: (i) Thuế nhà, đất; (ii) Thuế chuyển quyền sử dụng đất; (iii) Thuế sử dụng đất nông nghiệp; (iv) Tiền sử dụng đất; (v) Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước không kể tiền thuê mặt nước thu từ hoạt động dầu khí; (vi) Tiền đền bù thiệt hại đất; (vii) Lệ phí trước bạ; (viii) Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác; (ix) Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước;…Cũng tại nghị định 60/2003/NĐ-CP điều 23

- Khoản 2: Ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% đối với các khoản thu sau: (i) Thuế chuyển quyền sử dụng đất;(ii) Thuế nhà, đất;(iii) Thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình;(iv) Lệ phí trước bạ nhà, đất.

- Khoản 3: Ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản thu lệ phí trước bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà, đất.

Thì ra vì một lý do rất đơn giản, phần lớn nguồn thu của ngân sách nhà nước các cấp tại địa phương từ tỉnh, huyện đến xã là nguồn thu từ quỹ đất. Sự phụ này thậm chí đến mức khi thị trường đất đai rơi vào suy thoái thì nguồn thu của ngân sách địa phương gặp khó khăn!( 5)

Khác với chế độ sở hữu tư nhân đất đai ở một số quốc gia, Việt Nam có chế độ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý về đất đai. Nhà nước được sử dụng quyền "ông chủ" về mặt pháp lý, để thu thuế đất, mà mức thuế là vô cùng thấp. Sở hữu một lượng đất đai rất giàu có nhưng việc thu lại giá trị từ nó lại thấp.Tức là năng lực vốn, kinh tế do đất tạo ra là không được phân bổ rõ ràng theo quyền sở hữu.Một bên là nhu cầu thúc đẩy phải tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách, mà nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào quỹ đất, một bên là sự “rẻ mạt” của nguồn thu từ thuế đất, từ đây thúc đẩy các địa phương bán đất.

(5) Tấn Nguyên, Thị trường đất đai trầm lặng: Nguồn thu từ quỹ đất gặp khó khăn, tại địa chỉ: http://baoquangnam.com.vn/kinh-te/giao-thong-xay-dung/3435-thi-truong-dat-dai-tram-lang-nguon-thu-tu-quy-dat-gap-kho-khan.html

-----------------------------------------------------------------------------------------------

Một liên tưởng, có vẻ hơi chua xót, nhưng xét trên tầm vĩ mô, nó cũng gần giống như nền kinh tế Việt Nam hiện nay.Để phát triển nền kinh tế, cần nhất là vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất, trong đó nguồn gốc quan trọng nhất của nguồn vốn này lại phải là từ “ nội lực”.Vì thế, người ta cố gắng khai thác một cách tận lực các nguồn tài nguyên – là thế mạnh của mình nếu xét về lợi thế so sánh- đem bán để có nguồn vốn tái đầu tư.Và Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu tài nguyên dưới dạng thô nhiều nhất thế giới, cũng như lao động Việt Nam ( mà phần lớn là lao động chưa qua đào tạo, không có tay nghề) trở thành một “ lợi thế ” hấp dẫn cho các nhà tư bản nước ngoài khi họ quyết định đầu tư vào Việt Nam.

Hóa ra, chính vì sự không rõ ràng trong các quy định về sở hữu đất đai của Việt Nam hiện nay, cụ thể là sự vênh lệch giữa quyền sở hữu về pháp lý, quyền sở hữu về mặt kinh tế, đã trở thành một động cơ thúc đẩy các địa phương bán đất hơn là sử dụng vào các mục đích khác có hiệu quả hơn hay ít ra là bảo vệ công sản trước những “cuộc xâm lăng” đầy toan tính của các ông chủ dân doanh.

Cũng cần phải nói thêm, thực ra ở đâu và bao giờ cũng vậy, chức năng của nhà nước không phải là để kinh doanh, mà chỉ tạo ra môi trường thuận lợi cho các chủ thể khác kinh doanh.Ngay cả khu vực kinh tế nhà nước khi tham gia kinh doanh thì hiệu quả mang lại không bao giờ có thể bằng khu vực dân doanh, đó là một điều ai cũng phải thừa nhận. Chính yếu tố này, cũng là một nguyên nhân thúc đẩy cho việc bán đất của các chính quyền các địa phương đối với đất đai, đặc biệt là các mảnh đất ‘ đắc địa”.

III- Kinh tế luật và những kiến nghị.

Qua việc phân tích các yếu tố tác động đến hiện tượng chính quyền các đại phương rất ưa chuộng bán các mảnh đất đắc địa ở địa phương, nếu đi dọc đường 5 Hà Nội- Hải Phòng không khó để nhận thấy, hầu như tất cả các mảnh đất ở lô thứ nhất (có một mặt đường) đều đã rơi vào tay các ông chủ tư nhân.

Như đã phân tích, dưới góc nhìn kinh tế, đối với việc “mua” để có quyền sở hữu những mảnh đất này là một lựa chọn có lợi (rational choice) và tương tự việc “bán” các mảnh đất này đối với người bán là một lựa chọn hiệu quả (selection efficiency).Để làm giảm hay ngăn chặn hiện tượng này thì các quy định pháp luật khi được thiết kế cần xét đến yếu tố liên thông mang tính chất tổng hợp để đem lại hiệu quả, cụ thể:

Thứ nhất, với việc quy định nguồn thu của ngân sách địa phương quá phụ thuộc vào nguồn thu từ quỹ đất, trong khi địa phương lại bị trói chân bởi quy định về sở hữu toàn dân về đất đai dẫn đến sự vênh lệch giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu về kinh tế làm cho địa phương khó lòng đa dạng hóa được các nguồn thu từ đất.Hay nói cách khác ngân sách chính quyền địa phương bị phụ thuộc quá nhiều vào quỹ đất, nhưng lại không có động cơ để giữ lại đất đai cho các hoạt động hiệu quả khác thay vì bán đi để thu lợi trước mắt.Việc bán đất này làm cho việc phân bổ loại nguồn lực đầu vào có tính chất sống còn của nền kinh tế trở nên kém hiệu quả.

Vì vậy, khi tiến hành sửa đổi luật đất đai, luật ngân sách nhà nước,…cũng như các quy định pháp luật có liên quan cần nghiên cứu để quy định để tránh sự vênh lệch giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu kinh tế về đất đai như hiện nay.

Thứ hai, làm lành mạnh hóa thị trường bất động sản nói chung và thị trường đất đai hiện nay.Muốn lành mạnh hóa thị trường đất đai, biện pháp trước mắt là đánh thuế lũy tiến vào các giao dịch chuyển nhượng đất đai với mức thuế hợp lý.Đặc biệt là các đối tượng sở hữu nhà đất không vì nhu cầu để ở hay cải thiện nơi ở, và hiện nay luật thuế bất động sản là một bước đi đúng đắn.

Bước tiếp theo là cần phải xây dựng các hành lang pháp lý, các quy định pháp luật theo hướng để đất đai thực sự mang tính hàng hóa, tính thị trường cao.Có như vậy, mới chống lại được các cơn sốt giá, cũng như việc đóng băng thất thường của thị trường đất đai.Cũng cần lưu ý rằng, muốn tăng tính thanh khoản cho thị trường đất đai thì minh bạch thông tin là yếu tố sống còn.Như đã phân tích ở trên, chừng nào việc minh bạch thông tin và các thủ tục xác lập sở hữu liên quan đến đất đai còn phiền hà, chồng chéo như hiện nay thì sẽ làm cho thị trường đất đai phát triển một cách méo mó.Dĩ nhiên là lúc đấy những người có lợi thế về thông tin sẽ trục lợi bất chính và nhà nước thì chẳng thu được lợi ích gì đáng kể.

Thứ ba, song song với việc đẩy mạnh chống tham nhũng, xây dựng các quy định pháp luật chống tham nhũng liên quan đến đất đai một cách có hiệu quả, cần có những đánh giá và nghiên cứu nghiêm túc về nạn rửa tiền liên quan đến đất đai. Trong tình trạng có một lượng tiền khổng lồ đổ vào thị trường đất đai và ngày càng nhiều thêm theo thời gian.Cộng với việc thanh kiểm tra của các cơ quan chức năng về nguồn gốc của chúng còn rất yếu kém thì đây là một môi trường và kênh rất quan trọng để diễn ra việc rửa tiền.

Cuối cùng, để làm lành mạnh hóa thị trường đất đai, đem lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế trong công tác lập pháp cần nghiên cứu và xem xét một cách thích đáng các yếu tố kinh tế, để nhìn nhận rõ ràng các hành vi của các chủ thể trên thị trường, từ đó thiết kế các quy phạm pháp luật sao cho chúng được áp dụng trong thực tế, đem lại hiệu quả cao nhất./.