8/5/10

Thắp một nén nhang cho thi sĩ Hoàng Cầm


(TT&VH) - Nếu có ngày mai anh trở gót/Quay về lãng đãng bến sông xa... Vâng! Thi sĩ của Bên kia sông Đuống, đã trở gót từ sáng qua, hồn trở về Kinh Bắc.

1. Tôi đến thăm ông lần đầu năm 1993. Một buổi trưa đương ngồi nhà Trần Hòa Bình ở Cầu Giấy thì có Chu Văn Sơn và Văn Giá đến chơi. Văn Giá thì đã về Học viện Báo chí làm giảng viên. Còn Chu Văn Sơn vẫn là giáo viên bên Đại học Sư phạm Hà Nội I. Trên những chiếc xe cọc cạch, ba chúng tôi tìm thăm thi sĩ ở số 43 Lý Quốc Sư. Con phố ấy gần với Nhà thờ lớn Hà Nội. Căn nhà của Hoàng Cầm cũ kỹ và có vẻ hơi tồi tàn. Nhà gác lợp ngói mái liêu xiêu xô lệch.


Hoàng Cầm (phải), Lê Đạt (trái). Hàng sau là Chu Văn Sơn và tác giả bài viết (bên phải). Ảnh chụp năm 1993
Lúc chúng tôi đến thấy Hoàng Cầm và Lê Đạt ngồi trên một chiếc chiếu trải giữa sàn nhà. Hai ông ngồi tựa lưng vào cái đầu giường gỗ. Chắc hai ông đã ngồi như vậy quá nhiều năm, nên phần gỗ đầu giường mà các ông tựa lưng mòn bóng như khắc hình chân dung của mỗi người. Hai cái bóng ba mươi năm đổ vào đó.. .Họ ngồi đó, ngồi như vậy, bên cái ấm nước và cái điếu cày gần ba mươi năm còn gì!


Lê Đạt chốc chốc lại rít điếu cày sòng sọc rồi khoan khoái nhà khói. Mắt Lê Đạt lúc nào cũng như cười. Cái cả cười ấy nghe nói ông đem đối đãi với tháng ngày u ẩn mà tồn tại với đời.

Lê Đạt bàn về thơ, còn Hoàng Cầm nói về tập Kinh Bắc mới ra. Có thần thi, Tâm thi và Ngôn thi. Lê Đạt chia thơ như vậy. Thần thơ là thơ xuất thần, hiếm lắm. Tâm thi là thơ viết từ rung động của trái tim. Còn ngôn thi là thứ thơ ghép chữ có thể sản xuất được hàng ngày...

Chiều đông ấy không biết vui hay nhạt. Tiễn tôi ra cổng, tôi muốn ghi hình ảnh buổi gặp hôm nay bèn lôi cái máy Zenit cũ kỹ của Nga ra và xin phép chụp. Những bức ảnh ấy vẫn còn đây. Hoàng Cầm cao, đầu tóc trắng phất phơ. Lê Đạt thấp đậm, tươi cười như không bao giờ biết cau có. Chu Văn Sơn và Văn Giá vẫn thư sinh trẻ trung, mắt chàng nào cũng có vẻ trong trẻo...

2. Bức ảnh ấy còn, nhưng hai thi sĩ nổi tiếng Lê Đạt rồi Hoàng Cầm lần lượt rủ nhau về cõi khác. Cuộc chia ly nào chả buồn. Ba mươi năm họ lặng lẽ như vậy giữa cuộc đời. Nhưng trái tim thi sĩ của tình yêu Hoàng Cầm vẫn rung lên nỗi niềm Kinh Bắc. Chính trong cõi lặng lẽ ấy, những bài thơ tuyệt bút của ông được viết. Những Bên kia sông Đuống; Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc, Lá Diêu bông, 99 tình khúc... lần lượt làm sửng sốt người yêu thơ.

Thơ Hoàng Cầm ám ảnh nỗi buồn, nhưng đó là nỗi buồn đẹp trong trẻo và đầy mộng mị. Tôi đồ rằng nếu không có cái thời lặng lẽ ấy, Hoàng Cầm vẫn là “công chức văn hóa”, thì cuộc đời chắc gì đã có những tuyệt phẩm kia. Người ta gọi ông là “hoàng tử của thơ tình”. Thơ ông nhiều mộng ảo, một giọng một lối khó lường khó theo. Chất tính dục nằm ngoài câu chữ, kín đáo và gợi cảm đến là khéo: Ngủ lại giấc mơ dang dở/Chũm cau căng nứt mạch tằm/Yếm may ba ngày mẹ vá lại... hoặc: Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu/ Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt...Có một ám ảnh mang tên “yếm” làm người ta liên tưởng đến vẻ đẹp kín đáo mà thật gợi của gái miền Kinh Bắc: Nâu sồng nén nghẹn búp thanh xuân... Lẩn khuất đâu đây giấc mơ tính dục. “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi” K. Marx từng nói vậy. Vâng! Cái tài riêng Hoàng Cầm khó ai theo nổi khi viết về khát vọng yêu...


Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc
3. Lần đến thăm Hoàng Cầm sau này tôi đến một mình với tư cách nhà báo hỏi chuyện thi sĩ. Hoàng Cầm đã dành cho tôi cả buổi chiều, để kể chuyện tình mình. Vâng, chuyện tình đời ông vốn đâu có ít gì. Cho nên câu chuyện dài và buồn nhiều hơn vui. “Tên tôi là Bùi Tằng Việt”, ông lý giải, “Cái tên Hoàng Cầm là tôi lấy tên một vị thuốc đắng. Rồi chính số phận người cũng cay đắng vậy thôi...”. Và cái tai nạn văn chương khiến ông rơi vào cõi lặng ba mươi năm đằng đẵng...

- Một phần ba thế kỷ ấy như một nốt lặng trong bản nhạc đời tôi. Cái chết tinh thần không đến được, cũng nhờ nghị lực. Gia đình cả thảy có đến 11 người... Phải lạc quan sống.

Trong căn nhà buổi chiều đông ấy ông đã xúc động kể về những người đàn bà đã đi qua đời mình. Và kể ra những chuyện ấy một cách rành mạch như vừa mới đây, tôi biết hình như trong vô thức, ông muốn ký thác một điều gì ở người đối diện. Vâng! Tôi sẽ đến đều thăm ông để nghe ông, để viết về đời ông.

Những thăng trầm trong đời người chiến sĩ, thi sĩ Hoàng Cầm đã được ông kể với nỗi niềm hoài cảm. Chuyện Tuyết Khanh đã đi cùng đoàn kịch dựng Kiều Loan. Người đàn bà xinh đẹp Tuyết Khanh đóng Kiều Loan đã đem lòng yêu ông, sinh hạ được cô con gái xinh xắn được bố cho mang tên vở kịch thơ Kiều Loan để kỷ niệm mối tình nghệ sĩ... Hai mẹ con lên Việt Bắc, đi biểu diễn cùng Hoàng Cầm rồi sau có tin bà cụ đẻ Tuyết Khanh ở Hải Phòng ốm, nàng bế con đi bộ nửa tháng trời về Hải Phòng. Lần đi ấy Tuyết Khanh đã không trở về Việt Bắc. Cuộc chia ly ấy không hẹn trước và để lại trong lòng chàng thi sĩ trên đường kháng chiến một nối đau buồn vô bờ bến. Tuyết Khanh dẫu không đoạn tuyệt với người mình yêu, với kháng chiến nhưng hình như duyên phận của họ chừng bấy nhiêu.

Ngồi với Hoàng Cầm được một lát thì anh Hoàng Kỳ, con trai cả của thi sĩ đến. Thi sĩ dừng câu chuyện dang dở để giới thiệu với tôi về người trưởng nam của mình. “Kỳ con bà vợ cả. Hồi tôi đương đi học ở Hà Nội thì thầy mẹ tôi gọi về bảo cưới vợ. Con cái thì phải thuận theo. Thế là cưới một người con gái Bắc Giang. Sinh được Hoàng Kỳ, sau đương mang bầu một lần nữa nhưng chưa kịp sinh thì mất. Lần ấy tôi không về được, vì đương ở Việt Bắc. Nghe tin vợ mất, sau ba ngày nhận được tôi lần theo đường rừng về đến nhà thì nhà tôi đã mồ yên mả đẹp lâu rồi... Kháng chiến mà”.

Và chuyện về người vợ chính thức sau này của ông hình như làm ông cảm động nhất. Hòa bình về Hà Nội, Hoàng Yến là nữ y tá hoa khôi Nhà thương Phủ Doãn đem lòng cảm mến người nghệ sĩ tài hoa và đào hoa Hoàng Cầm... Hai người đều đã lỡ dở, nên chắp nối yêu thương như một lẽ đương nhiên. Nhiều người ngăn cản mối tình ấy... “Bà Hoàng Yến đã thực sự là chỗ dựa tinh thần và cuộc sống vật chất của tôi những năm ấy” - ông chầm chậm kể. Nhà lúc đó hơn mười miệng ăn làm sao tránh khỏi cảnh nheo nhóc.... Nhưng người đàn bà đẹp cuối cùng ấy đã đi bên cạnh đời ông, không than phiền hay dao động mảy may. Năm 1985 sau cái chết của người vợ từng tảo tần ba mươi năm khốn khó nhất cuộc đời, ông còn lại trơ trọi một mình cùng những câu thơ...

Hầu chuyện với ông già được một lúc thì anh Kỳ xin phép lên nhà. Anh Kỳ bảo cụ rất muốn có vài lần lên Kinh Bắc về Bên kia Sông Đuống mà chưa có dịp nào. Hôm nào rỗi Tân Linh lại đây rồi mấy thầy trò mình làm chuyến taxi đi lên Bắc Ninh chăng?! Tôi hứa sẽ cùng đi. Nhưng mãi chả có dịp nào. Đau xót thay, Hoàng Kỳ thì đã “ra đi” trước cha, anh đã trở về Kinh Bắc trước, chỉ còn lại người cha thi sĩ già yếu giữa đất Hà Thành...

4. Lần gần đây tôi đến chơi, nhân đọc bài thơ Áo mẹ, ông lấy bút giấy bình luôn bài thơ ngắn của tôi. Nét chữ ông ngoạch ngoạc nhưng bay bướm. Có lẽ viết về chị về mẹ thường là đề tài ông hay xúc động. Chia tay ông tôi đã xin phép chụp bức ảnh bằng cái máy ảnh Ricoh cũ kỹ. Ông đeo kính khoác cái áo đơn sơ...Mái tóc trắng tương phản ánh sáng chiều khá hiệu quả... Bức ấy tôi phóng lớn tặng ông, hiện vẫn treo ở nhà...

Nếu có ngày mai anh trở gót/Quay về lãng đãng bến sông xa...(thơ Hoàng Cầm). Vâng! Thi sĩ của Kinh Bắc, của những áng thơ tình ám ảnh yêu đương ấy đã trở gót từ sáng ngày Thứ Năm mồng sáu tháng Năm năm Dần 2010...

Tân Linh (nhà thơ)
----
Nguồn: http://thethaovanhoa.vn/173N20100507074627947T133/cui-lay-me-con-tro-ve-kinh-bac.htm

4/5/10

Xây dựng khoa Luật thành một thương hiệu mạnh, mang bản sắc riêng?

Tôi đã nhận được tin thầy Ngô Huy Cương chính thức có quyết định phụ trách bộ môn Luật kinh doanh- Khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội- nơi tôi sắp lấy bằng cử nhân luật kinh doanh ( 2006-2010) mấy hôm rồi. Tôi vẫn chưa có dịp chúc mừng thầy!Xin được chúc mừng thầy trên blog này vậy!
Thực ra đối với tôi, chuyện ai lên chức chủ nhiệm bộ môn ( ai làm chính trị) không quá quan trọng.Đối với tôi, cũng như các thế hệ sinh viên khoa Luật thì các thầy cô ai cũng đáng kính, cũng cá tính và chúng tôi đều rất biết ơn vì các thầy cô đã cho chúng tôi" không chỉ là kiến thức mà là những cái gì đó rất riêng thuộc về cá tính, nhân cách" của mình.Vả lại cái chức chủ nhiệm bộ môn ấy, vốn trước đây là của thầy Phạm Duy Nghĩa, người thầy mà tôi rất kính trọng, mến mộ mà sự chuyển công tác của thầy ít nhiều đã để lại rất nhiều nuối tiếc cho tôi, cũng như là sự thiệt hại " chảy máu chất xám" cho khoa Luật nên tôi cũng không mấy quan tâm đến việc ai "lên" , ai "xuống".
Nhưng trên hết, tôi rất "mến" thầy Cương vì cá tính rất mạnh của thầy, bên cạnh đó là lòng biết ơn vì không ai khác chính thầy vào học kỳ 2 của năm thứ hai đã trực tiếp dạy lớp 2 môn luật dân sự 2 và luật thương mại 1, mà nhờ đó thầy đã đánh thức một tập thể đang ngủ quên, truyền cảm hứng để cho những cái đầu mê muội dường như chỉ biết học luật theo kiểu học thuộc và vì điểm biết thế nào là học luật một cách " tử tế".Mặc dù phải thừa nhận rằng đấy là một phương pháp dạy học không mấy dễ chịu với người học ( có lẽ như hầu như ai đã từng học thầy đều có cảm giác như vậy?) nhưng quả là cũng rất đáng giá.

Bỏ qua nhưng cảm nhận yêu mến một cách cảm tính và cá nhân như vậy ( dưới góc độ học trò), trên giác độ nghiên cứu Luật học tôi để ý thấy rằng thầy là người mà gần như "Luật dân sự Việt Nam về mặt lý luận như thế nào, dường như đã được thầy định hình nó, xây dựng nó một cách khá rành mạch trong đầu" và việc của thầy dường như chỉ còn là vấn đề truyền bá, gieo rắc nó mà thôi. Đọc các bài báo, bài nghiên cứu của thầy, nếu để ý danh mục tài liệu tham khảo hầu như chúng vẫn là những cuốn sách, tài liệu ấy rất ít thay đổi.Người ta nói thầy giỏi vì chỉ với chừng ấy cuốn sách thầy có thể khai thác thành rất nhiều vấn đề, những bài báo nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh sâu sắc quả không sai.Có lẽ rằng, vấn đề đã được định hình rõ ràng, xuyên suốt và những tài liệu tham khảo ấy, chúng chỉ mang tính minh họa không hơn không kém.
Liên quan đến chuyện chính trị "khoa Luật", TS Ngô Huy Cương có lẽ là một trong những người đã và đang rất cố gắng và tâm huyết để có thể " vực dậy" hay xây dựng và phát triển ngành luật tư ở Khoa Luật. Nói muốn xây dựng và phát triển nó thành một bản sắc riêng, định hình thành một thương hiệu e là đi quá xa nhưng việc cố gắng nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu để trả lại một vị trí xứng đáng cho ngành luật tư ở khoa Luật là đúng.Bởi đã từ lâu rồi, hầu như các đời trưởng khoa Luật đều là các vị xuất phát từ ngành luật công ( hiến pháp,hành chính) vốn dĩ tư duy của ngành luật mà các vị ấy nghiên cứu , giảng dạy khó lòng cho họ một tư duy và não trạng để có thể đưa khoa Luật tạo nên những bước đột phá, lấy lại vị thế của khoa Luật Đại học Tổng hợp ngày xưa, chứ đừng nói là xây dựng khoa luật thành một thương hiệu mạnh, có tầm trong một môi trường kinh tế biến đổi nhanh chóng như hiện nay.Theo ý kiến cá nhân của tôi, đấy là một hướng đi phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế- xã hội hiện nay nên và phải phát triển ngành luật tư- vốn khá "èo uột" bấy lâu nay ở khoa Luật (dù rằng bộ môn luật kinh doanh cũng hội tự một số gương mặt tiếng tăm trong giới luật học Việt Nam đương đại???)Thực ra đây dường như là xu thế và thực trạng chung của giới luật học Việt Nam vì từ trước nay nền pháp luật nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật Xô- Viết và những người được đào tạo ở đấy trở về xây dựng, giảng dạy, nghiên cứu và đào tạo luật ở Việt Nam phần lớn là thuộc các ngành luật công.
Trong xu thế phát triển cũng như lịch sử của các trường Luật trên thế giới, hầu như học đều xác định cho mình một điểm mạnh nhất, tập trung và xây dựng nó thành một thương hiệu, một lĩnh vực chủ đạo.Nếu như Yale là luật hiến pháp, khoa học chính trị; Havard là luật kinh doanh nói chung thì Stanford là luật công ty và quản trị công ty, khoa Luật Đại học Duke mạnh về luật công ty và chứng khoán; Trường Kinh tế và khoa học chính trị Luân Đôn (LSE) lại rất mạnh về luật tài chính ngân hàng,..vì vậy, xác định một hướng đi là phát triển ngành luật tư cho khoa Luật có lẽ là một hướng đi hợp lý.
Xin chúc mừng thầy Ngô Huy Cương và chúc thầy luôn "khỏe" cả về sức khỏe thể chất cũng như năng suất khoa học như thời gian qua để đóng góp nhiều hơn nữa cho khoa Luật ở cương vị người quản lý. Cầu chúc cho những tâm huyết của thầy thành công để khoa Luật định vị được thành một thương hiệu mạnh trong con mắt giới học thuật cũng như xã hội và mỗi sinh viên hay cựu sinh viên cũng như những người có liên đều đến mái trường này có thể tự hào đã từng là Citizen's khoa Luật!!


( Những suy nghĩ này được gợi mở và phản biện rất nhiều trong những tâm sự và có khi là chuyện phiếm của tôi và thầy Vũ Quang, là giảng viên bộ môn Luật kinh doanh- trực tiếp giảng dạy tôi.Xin chân thành cảm ơn thầy rất nhiều!)
---------------
P/S: Nếu có dịp, tôi sẽ bàn thêm về tâm huyết của thầy Nguyễn Đăng Dung và thầy Phạm Duy Nghĩa về ý tưởng xây dựng những chủ thuyết và trường phái riêng cho khoa Luật để các thế hệ học trò tiếp nối người thầy tiếp tục xây dựng và phát triển những ý tưởng và kết quả nghiên cứu của thầy, nâng tầm để có những đóng góp hữu ích cho thực tiễn cuộc sống.Thầy Nguyễn Đăng Dung đã ví von rằng: nó tựa như những lớp ngói của một cái mái đình Việt Nam, mỗi lớp ngói sau lại gối lên, nối tiếp lớp ngói trên ( trước) ; chúng có tôn ti, thứ bậc lại có sự gắn bó, qua lại; đó là sự nối tiếp của đạo thầy trò, tình đồng nghiệp, tình người.Quả là triết lý lắm thay!Điều này không mới, ở Mỹ khoa Kinh tế Đại học Chicago với các trường phái kinh tế tự do, kinh tế luật (law and economics) là ví dụ điển hình...nhưng ở Việt Nam không biết bao giờ mới có???